Bệnh Marek được phát hiện lần đầu tiên trên thế giới vào năm 1907 bởi ông Marek người Hungari. Đây là một bệnh sinh khối u nguy hiểm ở gà do nhóm virus Herpes type B và là một ARN virus gây ra. Khi bị nhiễm virus, gà có thời kỳ ủ bệnh dài, tối thiểu là 28 ngày, thường là 2 tháng sau đó.
Bệnh Marek không lây sang người. Khi gà mắc bệnh Marek có tỷ lệ chết cao, có đàn lên tới 60-70%. Tính chất nguy hiểm của bệnh còn thể hiện ở chỗ là sau khi xâm nhập vào cơ thể gà, thì virus này mãi tồn tại trong cơ thể gà (nguồn lây bệnh) và hiện nay chúng ta vẫn chưa có được thuốc để điều trị căn bệnh này. Do vậy, việc nhận biết căn bệnh và các biện pháp phòng chống là vô cùng quan trọng.
Virus gây bệnh Marek
Do herpes virut gây ra. Là một loại ARN virut, có vỏ bọc.
Có 3 serotype:
– Serotype 1: Những chủng tạo khối u, có độc lực cao và thay đổi.
– Serotype 2: Những chủng ngoài tự nhiên, không gây khối u.
– Serotype 3: Những chủng có độc lực thấp, không gây bệnh, chủ yếu trên gà tây. Thường được sử dụng làm vaccine.
Tỷ lệ mắc bệnh từ 10 – 60%.
Tỷ lệ chết có thể lên tới 100%.
Tất cả các loại gà đều mẫn cảm với bệnh. Gà thường mắc bệnh sau 6 tuần tuổi, xảy ra chủ yếu ở độ tuổi 8 – 24 tuần tuổi. Ngoài gà còn có ghi nhận bệnh sảy ra trên thủy cầm và các loại chim.
Đặc trưng của bệnh là tăng sinh các tế bào lâm ba ngoại vi tạo thàng các khối u trên các cơ quan, tổ chức. Bệnh lây chuyền chủ yếu qua đường hô hấp và đường tiêu hóa.
Mắt có phản xạ kém, nặng có thể dẫn tới mù mắt.
Gà đang đẻ bình thường tự nhiên giảm đẻ đột ngột, tỷ lệ giảm trứng 20-35% so với bình thường, tỷ lệ giảm kéo dài liên tục. Gà vẫn ăn uống bình thường mà không bị chết, các triệu chứng khác không rõ.
Vở trứng sần sùi, chất lượng vỏ trứng kém; nếu trứng màu nâu thì khi bị bệnh trứng có thể mất màu.
Bệnh tích không có gì đặc việt, khó tìm thấy các thương tổn trong các tổ chức nội tạng kể cả buồng trứng, cơ quan sinh sản.
Chẩn đoán dựa vào triệu chứng giảm đẻ, trạng thái vỏ trứng kém chất lượng.
Phân việt với các bệnh khác như: CRD, viêm phế quản (IB), E.coli, Nuicatxơn cũng gây giảm đẻ, vỏ trứng biến dạng nhưng gà chết, các triệu chứng khác rõ.
Làm phản ứng huyết thanh học.
– Bệnh marek là bệnh do virut gây ra nên không có thuốc diều trị đặc hiệu.
– Chủ yếu là phòng bệnh
– Đối với bệnh này chủ yếu phải dùng vaccin để phòng và dùng các thuốc bổ để tăng cường sức đề kháng cơ thể gà, đặc biệt là:
METASOL 1ml/2lít nước/ngày
GLUCO KC 200g/20 lít nước
ADE BCOMPLEX+C 100g/100 lít nước uống/ngày
– Dùng vaccin theo đúng khuyến cáo của nhà sản xuất.
– Cần sử dụng vaccine mareck được bảo quản tốt trong vòng 24h đầu sau khi gà ấp nở.
– Vaccine marek có rất nhiều loại nhưng vaccine ni tơ lỏng đang được sử dụng rộng dãi và có hiệu quả cao.
Hiệu giá sử dụng vaccine marek:
Type |
Hiệu giá bảo hộ |
CVI 988 (Serotype 1) |
76% |
SB 1 (Serotype 2) |
39% |
HVT (Serotype 3) |
32% |
CVI 988 + SB1 |
67% |
CVI 988 + HVI |
73% |
SB1 + HVI |
66% |
CVI 988 + SB1 + HVI |
79% |